I/ Đặt vấn đề:
Trong
cơ thể có hai thành phần quyết định sinh mạng của cơ thể đó là khí và huyết.
Khí có hai nguồn tiên thiên
và hậu thiên. Khí và Huyết có quan hệ mật thiết và tác động qua lại. Trong nội
kinh đã ghi“Khí là thống soái của huyết”
_”Huyết là mẹ của khí”. “Khí
hành” thì “huyết hành”, ngược lại ”huyết có hành thì khí mới hành”.
Như
vậy hai sản phẩm vật chất này phải đủ và ở trạng thái lưu thông thì các tạng
phủ mới được nuôi dưỡng và hoàn thành chức năng của mình.
Tạng phủ kém hoạt động phần
lớn do khí hoặc huyết thiếu và ở trạng thái không lưu thông .
Trong
quá trình tìm tòi, tổng kết hàng ngàn năm của nhiều đời, con người cũng đã tìm
ra nhiều cách để phòng và chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ cho con người. Đó là các
phương pháp như không dùng thuốc, có các bài tập, xoa bóp, châm cứu, để góp
phần tăng cường khí huyết và lưu thông khí huyết. Con người cũng tìm ra rất
nhiều vị thuốc_ có lẽ bắt đầu từ thức ăn, sau dần là tìm ra các nhóm thuốc,(
Trong phạm vi bài này chỉ bàn về thuốc hoạt huyết), có tác dụng tăng khí huyết,
và lưu thông khí huyết.
II/
Nguyên nhân gây huyết ứ:
Một là do ngoại nhân:
Trong lục dâm thì hàn tà là tác nhân
số một “ hàn ngưng”, thứ hai là “thấp tà”, thấp tà dẫn đến “trệ”. Tỳ ố thấp,
thấp làm rối loạn công năng tỳ mà sinh đàm. Đàm là sản vật sẽ gây ứ trệ huyết.
Hai là nội nhân:
Huyết liên quan đến nhiều tạng. Cho
nên yếu tố nào của thất tình cũng có thể làm huyết ngưng, huyết ứ, trực tiếp
hay gián tiếp, như uất thương can_Can tàng huyết, uất ức kéo dài có thể dẫn tới
“Bầm can tím ruột”.
Buồn hại phế_Phế chủ khí, khí rối loạn lưu thông kéo
theo huyết ứ trệ_Bệnh ở phế thường có đau tức vùng huyệt mộ của khí, huyệt
thiên tông hay vùng vai lưng ngực_ do bất thông nên thống