Người xưa có câu thứ nhất
treo chữ thứ nhì treo tranh sự thực Hoành phi là bức tranh chữ _ cũng có nơi
gọi là Hoành, là Biển ngạch hay Bài biển _ ngày xưa thường treo thuộc bình
phong, nay treo đâu tuỳ chủ nhà, tùy ý trong chữ mà treo nơi thờ cúng hay treo
nơi phòng khách để nhắc nhở, để tâm sự …
Giãi bày
Các Hoành phi ngày
xưa chữ cô đọng mà nghĩa rộng.
Thí dụ: Tích thụ Kim hoa,
Phụng tiên tư hiếu. Mỗi nơi treo phải chọn Hoành phi cho hợp. Thí dụ ở nhà thờ
họ: Dương tộc từ đường, ở Đình chùa: Thánh cung vạn tuế, ở đền: Phối thiên kỳ
trạch … Chữ ở cổng làng: Như Kiến đại nhân: Như gặp khách quí. Lai gia viễn:
vui như đón bạn ở xa đến.
Câu đối còn gọi là Doanh thiếp_Doanh liên_Đối liên, sở dĩ
gọi vậy vì Doanh là cột, thiếp là tờ giấy, liên là liên kết. Đối là đi đôi, một
cặp đối xứng, dân ta gọi nôm na là Câu đối.
Câu đối cũng để ca ngợi để tuyên dương. Mừng tết, mừng xuân
… Tất cả các nơi: Đình, đền, miếu, chùa, lăng tẩm, di tích đều có thể treo câu
đối. Ngày xưa ông tổ làng nghề, hay người thi đỗ, chúc nhà mới, cửa hàng đều có
câu đối. Trong ứng xử ngoại giao cũng dùng câu đối. Có câu đối chứa điển tích.
Có câu đối để treo có câu đối để đọc.
Năm 1937 Nhà thơ Vũ Đình Liên
có viết về 1 phong tục xưa:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông Đồ già
Bầy mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tặc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay …
Ngày xưa nói đến tết ai cũng
thuộc câu đối:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao pháo nổ bánh trưng xanh.
Ngày nay
Hoặc: Đỏ đào Nhật Tân, đỏ sóng sông Hồng xuân đẹp thế nét
xuân Hà Nội
Xanh nước Hồ tây. Xanh cây Hoàn Kiếm tết vui thay
vẻ đẹp Thăng Long
Tết xưa tết nay cũng khác
nhiều nhưng tôi thấy càng ngày lại càng nhiều nhà treo chữ treo câu đối, câu
đôi để răn dạy tu dưỡng thường treo ở nhà Họ. Nhà thờ nhiều người đỗ đạt làm
quan to thì được nhắc:
Thiện báo ác
báo chi báo tốc báo chung tu hữu báo
Thiên tri,
địa tri, nhĩ tri, ngũ tri hà vị vô tri.
Cụ Lê Trần Sáng dịch:
Thiện báo, ác báo, chậm báo, nhanh báo đến cùng
đều có báo
Trời biết, đất biết, anh biết, tôi biết sao bảo
không ai biết.
Có ông quan nhận 3 triệu đô
của nước ngoài nhưng tòa án lại xử là lấy
4 nghìn đô tiền thuê nhà, có ông quan 10 năm làm khai thác bán bừa
khoáng sản làm thất thoát hàng trăm nghìn tỷ đồng cạn kiệt tài nguyên ấy lại
bảo là có công với nước nên chỉ xử về hưu. Tiền giấy không in, in tiền polime
sai be sai bét chính phủ đã thanh tra mà lại bảo chỉ chuyển ngành.
Câu đối chỉ đọc cho vui mà người nghe tự hiểu thí dụ Cao Bá
Quát vịnh điếu cày:
Ra tay cầm cán sôi trong nước
Ngậm khói phun
mây sạch bụi trần.
Người làm câu đối có trí tuệ,
người đọc câu đối cần có trí tuệ mới thấy hết cái sâu xa trong lời chúc lời
phúng lời răn. Tôi biết mình kiến thức còn hạn hẹp nên chép lại chuyện thầy Đồ
dạy học sinh làm câu đối, thầy dạy phải đối từng chữ từng ý rồi thầy ra vế đối:
Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc
Học trò hăng hái hưởng ứng
nhưng bí liền hỏi:
_Thưa thầy: Thánh đối với
thần được không ạ ?
_Được
_Sâu đối với nông được không
ạ ?
_Gươm đối với giáo, nước đối
với dân
_Được
_Gừng đối với nghệ
_Ngũ cốc thì đối với tam cò
_Được
Thầy đang mải đọc sách Thánh hiền, trò hỏi từng từ thầy
thấy đúng nên bảo được.
Cuối cùng vế đối là:
Thánh sâu gươm nước gừng tam cò.
Có phải đây cũng là bài học cho người làm nghề thầy không?
Câu đối có loại đối thơ có loại đối phú có bằng có trắc có phép có cách không
đối tùy tiện thế được. Câu đối cũng thể hiện khí phách trong ngoại giao:
Đồng cổ chí kim đài dĩ lục ( câu này để ca ngợi
tượng đồng của Mã viện)
Cụ Nguyễn Tuấn đi sứ đối lại:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng (câu này nhắc đến chiến
thắng Bạch Đằng của người Đại Việt
Nghe nói vừa qua bà con đánh cá của ta cũng bị
trêu chọc làm khốn đốn.Hội đánh cá không sợ và lên tiếng phản đối, nếu hội đánh
cá là hội cả nước bầu ra thì tiếng nói sẽ to hơn. Chỉ tiếc không ai làm được
câu đối để lưu truyền chuyện này. Để kết những suy nghĩ tản mạn về Hoành phi
Câu đối xin kể chuyện cụ Nguyễn Khuyến (Tam Nguyên Yên Đổ): Có một làng buôn xin cụ chữ để treo ở Đình
làng
Cụ cho 4 chữ “nhị” _ trông chẳng khác 4 cái bừa nên làng
xin cụ chữ khác _ cụ giải thích :
Làng đi buôn thì mong có lãi phải không ?
Sách tam tự kinh ghi: “nhất
nhị thập, thập nhị bách, bách nhị thiên, thiên nhị vạn” có phải cả làng mong
một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, nghìn thành vạn đấy ư ?
Lại kể rằng làng Đặng xá xin cụ chữ để thờ thành Hoàng làng
_ cụ viết : Quang bị tứ biểu, Đức sáng bốn phương nhưng dân làng làm nghề hàng
xáo thì mua thóc về xay rồi bán khắp nơi: thì hiểu câu này là quang dây bị gió
đi khắp bốn phương.
Nghề chơi cũng lắm công phu, người Tàu chữ Tàu là thâm lắm
các cụ thường nói vậy. Xin mượn đôi câu đối của gia đình ông Vũ Văn Đế (Thuận
Thành – Bắc Ninh) chúc mọi người:
Tích thiện hồng hi lưu vĩnh sản
Kính tài hậu lộc phát trường hưng.
(Tích thiện mãi lưu truyền phúc lớn
Kính tài luôn phân phát lộc dày)
Và chữ cho Hoành phi:
Tích thụ Kim
hoa (Cây xưa _ hoa nay)
(Tổ tiên gây
dựng _ con cháu phát triển).
Xuân
canh dần
Dương Trọng Hiếu