Đông y gọi các cơ quan trong cơ thể
là tạng phủ.
Tây y nhờ sự
phát triển của các khoa học khác mà vài trăm năm gần đây đã mô tả chính xác vị
trí liên quan, hình dáng các cơ quan
trong cơ thể. Mô tả chính xác các chức năng sinh lý và bệnh lý của các
cơ quan - nên mọi người có thể nhìn, sờ
thấy các cơ quan đó.
Đông y hình
thành từ hàng ngàn năm, nên việc mô tả chức năng các cơ quan mang tính tổng kết
thực tiễn, không mô tả kích thước hay vị trí hình dáng cụ thể. Mà chú ý mô tả
chức năng lúc bình thường và khi bệnh lý – Người đọc cần tưởng tượng – chứ
không sờ nắn các tạng phủ được.
Cơ thể con
người có 6 tạng và 6 phủ: đó là Tạng Tâm, tạng can, tạng tỳ, tạng phế, tạng
thận, tâm bào. 6 phủ đó là tiểu tràng, đởm, vị, đại trường, bàng quang, tam
tiêu.
Trong phạm vi
bài này chỉ xin giới thiệu về tạng Thận. Có 2 tạng được coi là tiên thiên bởi
nó hoạt động khi còn trong bụng mẹ (nghĩa là khi còn bào thai) đó là Tâm và
Thận.
Thận có các chức năng:
- Thận sinh tinh và tàng tinh. Tinh có thể hiểu là các chất
tinh hoa của cơ thể và tinh hoa của thức ăn. Nhờ có tinh cơ thể mới phát triển
– mới sinh sôi nảy nở. Tinh ít, tinh kém sẽ chậm phát triển, sẽ rối loạn về
hoạt động tình dục, không có khả năng chửa đẻ…
- Thận chủ cốt – Thận khoẻ, hệ thống xương khớp vững chắc,
răng khoẻ, không đau lưng mỏi gối, trẻ em chóng biết đi, biết nói, tóc đen
mượt.
- Thận sinh tinh, tinh sinh tuỷ - tuỷ sinh não.
Thận sinh tinh, tinh sinh tuỷ, tuỷ sinh huyết.
- Thận chủ thuỷ: Đông y cho rằng nước uống và tỳ vị sẽ chưng
bốc lên phế, phế đưa xuống – Thuỷ dịch có phần trong (thanh), phần đục – Trong
thứ đục là có đục có trong. Thứ thanh theo phế đi khắp da lông – Thứ đục trong
thanh theo tam tiêu xuống thận – còn thứ đục theo bàng quang thải ra ngoài, còn thứ chứa ở thận sẽ thành
tinh.
- Thận tàng trí: Ý trí của con người chứa ở thận, kinh sợ hại
thận. Người thận yếu thương nhút nhát, yếu hèn. Thận và Tâm cũng liên quan đến
trí nhớ, tâm thận yếu, trí nhớ giảm, đau lưng mất ngủ.
Thận lại được
chia ra Thận âm và Thận dương – Khi bị bệnh chỉ biểu hiện chứng hư, nghĩa là
sức đề kháng yếu.
Người Thận
dương hư: Do cha mẹ sinh ra đã yếu hay do lao động quá độ, hoặc người ốm kéo
dài hoặc gặp ở người già: Thường sợ lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt nhợt, hay đau
mỏi thắt lưng, nam giới liệt dương, nữ rối loạn kinh, kinh nhợt mạch trầm
nhược(bộ xích yếu).
Nam giới có thể
di tinh, hoặc tiểu nhiều lần, dễ són đái, người cao tuổi ỉa lỏng buổi sáng, dễ
khó thở, cũng có thể phù ở chi dưới, tiểu ít, đái khó, đái nhiều lần.
Thận âm hư:
Gặp ở người ốm lâu ngày, hoặc người mất máu, mất nước nhiều. Triệu chứng là dễ
hoa mắt chóng mặt, người gầy, luôn có cảm giác nóng, miệng khô răng lung lay,
đau nhức trong xương, hay ra mồ hôi trộm, lưỡi đỏ, mạch thường nhanh.
Như vậy nếu
căn cứ vào chứa năng của tạng Thận thì những bệnh nhân đau thắt lưng, đau xương
khớp, bệnh nhân rối loạn đại tiện, tiểu tiện, rối loạn kinh nguyệt, suy giảm
hoạt động sinh dục… đều do thận yếu.
Phòng bệnh:
- Đông y đã quan sát vị mặn vào thận nên không nên ăn mặn, nhất là người cao
tuổi, ăn mặn hại Thận.
- Trong các trạng thái tâm thể thì kinh sợ hại thận, trong
cuộc sống tránh doạ nạt đánh mắng trẻ, giảm các yếu tố làm ta kinh sợ.
- Lao động nặng, khiêng vác nặng dễ tổn thương hệ xương, đặc
biệt là cột sống: cột sống cổ, cột sống thắt lưng. Lưng là phủ của Thận. Hệ
thống xương do thận quản lý nên hỏng xương sẽ làm thận yếu.
- Thận tàng tinh sinh tinh, quan hệ tình dục nhiều, tinh hao
thận yếu “Đa dâm bại thận”.
Hàng ngày
trong ăn uống có rất nhiều thực phẩm tốt cho thận như: Đạu đen, quả dâu chín,
rùa, baba, lươn, chim sẻ… yến, thịt dê, thịt chó…
Thuốc có rất nhiều vị, tuỳ bệnh lý mà
chọn dùng thí dụ như: Đau lưng gối thì dùng Đỗ trọng, ba kích, ngưu tất, cẩu
tích…
Thận âm kém thì dùng thục địa, hà thủ
ô, cao mai rùa.
Thận dương kém thì dùng: nhung, cao
ban long, ích trí nhân, nhục dung…
Có những bài thuốc tốt cho trẻ còi
xương chậm biết đi là bài Lục vị, thành phần:
Thục địa 16g Hoài sơn
12g
Sơn thù 8g Đan bì 6g
Phục linh 6g Trạch tả 6g sắc
uống
Trẻ em liều bằng 1/3 hay ½ liều người
lớn.
Có bài thuốc tốt cho thận âm dương
hư: Bát vị quế phụ:
Thục địa 16g Nhục quế 8g
Hoài sơn 12g Phụ tử 6g
Sơn thù 8g Đan bì 8g
Phục linh 6g Trạch tả 6g sắc uống ngày 1 thang.
Tuỳ người bệnh mà thầy thuốc có thể
dựa trên 2 bài thuốc trên để thêm bớt vị thuốc cho phù hợp.
Hàng ngày có thể kết hợp xoa bóp hay
cứu các huyệt:
- Dũng tuyền: Nằm ở 1/3 đường dưới
gan bàn chân.
- Tam âm giao: Từ đỉnh mắt cá trong
đo lên khoảng 4cm.
- Thái khê: Ở giữa đường nối mắt cá
trong với gân gót.
- Thận du: Từ đốt thắt lưng 3 đo ra
2cm.
- Mệnh môn: Ở giữa đốt thắt lưng 3.
Mỗi ngày xoa bóp hay cứu vào đó từ 20
-40 phút cũng giúp cải tiến công năng tạng thận. Tạng thận là 1 tạng có vai trò
quan trọng trong cơ thể, tạng Thận khoẻ sẽ giúp các tạng khác khoẻ, sức khoẻ
chung cũng tốt./.