Nói đến
tiết niệu ta hình dung gồm thận, bể thận,
niệu quản, bàng quang và niệu đạo.
Sỏi được
hình thành từ Thận, nhưng có thể trôi dần đến bể Thận, niệu quản, Bàng quang
hay niệu đạo. Sỏi được hình thành thừ các loại muối vôi: Oxalát,
Urat,Photphat...
Bình thường trong máu vẫn có các loại
muối. Do nguồn thực phẩm và nước uống cung cấp. Cầu thận và ống thận hàng ngày
có chức năng lọc, bài xuất bớt ra nước tiểu. Nhiều người cho rằng sở dĩ có sỏi
bởi 2 yếu tố: Một là thức ăn, uống có quá nhiều muối vôi( Vùng núi đá vôi), Hai
là độ pH của máu thay đổi dễ hình thành phản ứng kết tủa..
Vì vậy phòng sỏi thận cần chú ý hạn
chế loại thực phẩm có nhiều muối vôi, Hai là hàng ngày uống đủ nước để thận có
thể lọc được, thải ra nước tiểu. Cũng có người nêu yếu tố nội tiết. Trong cơ thể,
cạnh tuyến giáp trạng(ở cổ) có tuyến bàng giáp trạng. Tuyến bàng giáp trạng có
chức năng tiết chất nội tiết để chuyển hoá muối nước. Khi nồng độ chất nội tiết
thay đổi ở trong máu, người đó dễ bị hình thành sỏi đường tiết niệu. Muốn chẩn
đoán chính xác có sỏi hay không, sỏi ở vị trí nào, cần siêu âm hoặc chụp Xquang
có bơm thuốc cản quang vào mạch máu, kỹ thuật này gọi tắt là UIV.
Tác hại của sỏi tiết niệu là cao huyết
áp, là dãn và suy thận, nhiễm trùng tiết niệu. Tây y chữa sỏi thường dùng phấu
thuật, có thể mổ thông thường, mổ nội soi hoặc tán sỏi ngoài bụng.
Đông y căn cứ vào các triệu chứng ở
người bị bệnh sỏi để đưa ra cách lý luận và tìm bài thuốc, vị thuốc để chữa.
Triệu chứng thường gặp là:
- Đau
vùng thắt lưng: Đặc điểm của chứng đau này là đau sau lao động hay sau chạy nhảy
nhiều, đau lan xướng dưới ra đường đi tiểu.
- Đái dắt,
đái buốt, đái đục đái đỏ.
Đái dắt
là đái nhiều lần trong ngày, đái ít thường
đái sót nước tiểu dễ dây ra quần, ra tay, đặc biệt ở trẻ 4-10 tuổi hay thấy dấu
hiệu " Bàn tay khai".
Đái đục nếu đục cả bãi thường sỏi ở
thận, đái đục là thấp. Đái đục cuối bãi thường là sỏi bàng quang.
Đái đỏ là nước tiểu có máu, do sỏi
có cạnh sắc như sỏi san hô - Hoặc viên sỏi đang di chuyển làm rách các tổ chức
gây chảy máu - nước tiểu màu đỏ là nhiệt.
Nếu có sốt
là nhiếm trùng- Đông y gọi là thấp nhiệt.
Như vậy có 2 loại: Một là hàn thấp,
Hai là nhiệt thấp.
Cách chữa
cũng căn cứ vào đó: Nghĩa là căn cứ vào hàn hay nhiệt. Nhưng ngày nay nhờ tiến
bộ khoa học những trường hợp sỏi to, sỏi san hô(Tức là sỏi có nhiều góc cạnh)
phải chữa bằng ngoại khoa(Tây y), Sỏi nhỏ đường kính dưới 1cm hãy chữa bằng thuốc(Đông
hay tân dược).
Bài thuốc chữa cho chứng thấp nhiệt:
Hoàng cầm 12g Hoàng liên
12g
Hoạt thạch 12g Trạch tả 12g
Độc hoạt 12g Kim tiền thảo 20g
Mộc thông 16g
Bài thuốc
chữa thể hàn thấp:
Mộc thông 12g ( có thể
thay bằng Đăng tâm 20 sợi)
Trạch tả 12g Kim tiền thảo 20g
Độc hoạt 12g Nhục quế 8g
Quế chi 12g Mộc hương
12g
Kê nội kim 12g
Dân gian
thường dùng một số vị để chữa sỏi như:
Dứa dại Rễ gấc
Quả
chuối hột
Cây
chân vịt
Rau
sam
Chua
me đất
Lá
đùm đũm
Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu
đầy đủ để đánh giá tác dụng của các vị thuốc này. Một số công trình nhgiên cứu
của Mỹ có nói Mộc thông có độc - Nên một số nhà y học Trung quốc ngại dùng, qua
thực tiễn thường chữa từ 1-4 tuần chúng tôi không thấy bệnh nhân nào nhiễm độc./.